Hotline: 0364680123 (8h - 12h, 13h30 - 17h)
Thông báo của tôi

Lịch sử du nhập cây cà phê vào Việt Nam

Lịch sử du nhập cây cà phê vào Việt Nam
Cây cà phê đầu tiên được người Pháp mang đến Việt Nam vào năm 1857, từ các đồn điền nhất nhì Đông Dương này, cây cà phê đã có những trở mình mạnh mẽ, thoát khỏi các định chế bao cấp, trở thành một trong những cây trồng có giá trị xuất khẩu cao nhất (sau lúa gạo), và đưa nước ta lên vị trí thứ 2 của bản đồ cà phê thế giới. Bài viết này sơ lược về một số mốc thời gian đáng kể từ khi cây cà phê có mặt tại nước ta đến thời kỳ đổi mới, ngoài ra các bạn có thể tham khảo thêm một số nội dung sau:
  • Tổng quan về lịch sử cà phê từ lúc khám phá đến thương mại hóa toàn cầu..
  • Vai trò công hưởng của nền kinh tế cà phê với niềm đam mê và gu thưởng thức của người việt trong cà phê Việt Nam – Qua những làn sóng lịch sử.
  • Tìm hiểu vai trò của con người, chính sách, tài nguyên và phương thức canh tác trong sự phát triển của cà phê Robusta Việt Nam.

    Khởi sự của cây cà phê ở Việt Nam

    Arabica (Coffea arabica) là giống cà phê đầu tiên được đưa vào Việt Nam vào năm 1857, thông qua các nhà truyền giáo Pháp. Nó đã được thử nghiệm tại các nhà thờ Công giáo ở các tỉnh phía bắc, như Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh; và sau đó lan sang một số tỉnh miền trung, như Quảng Trị và Quảng Bình. Cuối cùng, cà phê đã được đưa đến các tỉnh phía Nam của Tây Nguyên và Đông Nam Bộ. Sau đó người ta mới phát hiện ra rằng Tây Nguyên là nơi thích hợp nhất để trồng cà phê.

    Sau đó, vào năm 1908, người Pháp đã mang hai loại cà phê khác đến Việt Nam là Robusta(Coffea canephora) và Exelsa (Coffea exelsa). Không dừng lại, người Pháp đã thử nghiệm nhiều giống khác nhau từ Congo tại Tây Nguyên, và chứng kiến sự phát triển rất tốt của cà phê ở khu vực này. Xuyên suốt cuộc chiến và cho đến năm 1986, nhiều khu vực sản xuất cà phê đã phát triển, nhưng rất chậm và sản lượng thấp. Năm 1986, tổng diện tích cả nước dành cho sản xuất cà phê chỉ khoảng 50.000 ha và khối lượng sản xuất là 18.400 tấn (chỉ hơn 300.000 bao 60 kg).

    Qua nhiều năm trồng cà phê, kết quả cho thấy cây cà phê cà phê chè (Arabica) không cho kết quả mong muốn vì dễ bị tấn công bởi sâu đục thân (xylotrechus quadripes) và nấm gỉ sắt(Hemileia vastatrix) phá hoại. Cà phê vối (Robusta) thì không phát triển tốt ở miền Bắc do có mùa đông nhiệt độ quá thấp so với yêu cầu sinh thái của cây này. Chỉ có cà phê mít (Excelsa) sinh trưởng khỏe, cho năng suất khá, song giá trị thương phẩm lại thấp. Và lúc đó có chuyên gia nước ngoài đã khuyến cáo không nên trồng cà phê chè ở Việt nam và chỉ trồng cà phê vối ở phía nam và cà phê mít ở phía bắc (Chatot – cây cà phê ở Đông Dương -1940).

    Trong giai đoạn những năm 1960-1970 ở miền Bắc Việt nam, hàng loạt nông trường quốc doanh được thành lập, trong đó có hàng chục nông trường trồng cà phê, và trồng cả 3 loại chè, vối, mít. Tình hình phát triển của cà phê những năm này cũng không mấy khả quan và đến đầu thập niên 70 người ta đã kết luận không trồng được cà phê ở phía bắc.

    Công cuộc cải cách, và bước nhảy vọt về sản lượng

    Sau khi chiến tranh thúc kết thúc năm 1975, đất nước gần như trên đà lao dốc về mọi mặt kinh tế – chính trị – xã hội, trong đó các chính sách kinh tế được sao chép từ Liên Xô không còn phù hợp với tình hình nội tại của nước nhà bấy giờ. Điển hình là mô hình nông nghiệp tập thể đã chứng tỏ sự kém hiệu quả, vì vậy vào năm 1986, Đảng và nhà nước đã thực hiện một “cú quay đầu” (công cuộc cải cách) – như một ván cược lớn, và cây cà phê đồng thời cũng năm trong số ấy.Năm 1980 một chương trình phát triển cà phê ở Việt nam do công ty cà phê ca cao thuộc Bộ nông nghiệp và Công nghiệp thực phẩm xây dựng được trình lên Thường trực Hội đồng Bộ trưởng và được cho phép thực hiện. Tiếp đó là một loạt các hiệp định hợp tác sản xuất cà phê được ký kết giữa chính phủ Việt nam và Liên xô (trồng mới 20.000 ha cà phê), CHDC Đức (10.000 ha), Bungary (5.000 ha), Tiệp khắc (5000 ha) và Ba lan (5000 ha) – Theo Đoàn Triệu Nhạn, VICOFA.

    Xí nghiệp liên hiệp cà phê Việt Đức, chụp năm 1985

    Năm 1982 Liên hiệp các xí nghiệp cà phê Việt Nam (LH-XN-CPVN) được thành lập theo Nghị định 174 HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng với sự tham gia của 3 sư đoàn quân đội và một số công ty thuộc Bộ Nông nghiệp và các địa phương Đắk Lắk, Gia Lai – Kon Tum. Chương trình phát triển cà phê được mở rộng trên các tỉnh Tây nguyên và Đông nam bộ. Loại cà phê được chọn để mở rộng diện tích là cà phê Robusta, một giống cà phê ưa điều kiện khí hậu nóng ẩm và nhất là ít bị tác hại của bệnh gỉ sắt.

    Bước ngoặt 1986

    Năm 1986 LH-XN-CPVN được sự hỗ trợ của các Bộ nộng nghiệp, Kế hoạch, Tài chính, Ngoại thương,… đã tổ chức Hội nghị phát triển cà phê trong các hộ gia đình nông dân ở các tỉnh Tây nguyên, duyên hải miền Trung và Đông nam bộ, gọi là Hội nghị cà phê nhân dân lần thứ nhất. Cùng với chính sách mới và có sự kích thích mạnh mẽ của giá cà phê trên thị trường quốc tế đang lên cao lúc đó, ngành cà phê Việt nam đã phát triển nhanh mạnh (Xem thêm Cà phê Việt Nam – hành trình ba thập kỷ)Cho đến những năm cuối thập niên 80 của thế kỷ 20 ngành cà phê Việt nam mới đưa giống cà phê Catimor của loài cà phê Arabica vào sản xuất. Từ đó cà phê Arabica bắt đầu được trồng ở Việt nam với giống chống bệnh gỉ sắt Catimor. Đó cũng là cơ sở để Tổng công ty cà phê Việt nam xây dựng chương trình phát triển cà phê Arabica ở Việt nam.

Đang xem: Lịch sử du nhập cây cà phê vào Việt Nam